Tham khảo Dị tính luyến ái

  1. Trang 188 "Nhiều người tin rằng sự mang thai có thể xảy ra khi xuất tinh ngoài"…
  2. 1 2 7. "Không có bằng chứng chắc chắn nào có thể nêu lên nguyên do cụ thể của đồng tính luyến ái; tuy nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu đồng ý rằng những yếu tố về sinh học và xã hội ảnh hưởng tới quá trình hình thành xu hướng tính dục".
  3. 1 2 8. "Phần đông các tổ chức sức khỏe và sức khỏe tâm lí không nhìn nhận rằng xu hướng tính dục là một lựa chọn".
  4. 24. Bogaert lập luận rằng: "Độ phổ biến của đồng tính nam đang gây tranh cãi. Một ước tính ban đầu được trình diện nhiều là 10% (ví dụ, Marmor, 1980; Voeller,1990). Một số dữ liệu gần đây thể hiện bằng chứng ủng hộ ước tính này (Bagley và Tremblay, 1998), thế nhưng những lần lấy mẫu thử quốc gia trên diện rộng gần đây chỉ ra rằng độ phổ biến của đồng tính ở nam trong xã hội phương Tây hiện đại, bao gồm Hoa Kì, thấp hơn ước tính ban đầu này (ví dụ, 1-2% trong nghiên cứu của Billy và những người khác, 1993; 2-3% trong nghiên cứu của Laumann và những người khác, 1994; 6% trong nghiên cứu của Sell và những người khác, 1995; 1-3% trong nghiên cứu của Wellings và những người khác, 1994). Tuy nhiên ta cũng ghi nhận rằng đồng tính luyến ái được định nghĩa khác nhau trong những nghiên cứu này. Ví dụ, một số nghiên cứu sử dụng hành vi đồng tính chứ không phải thu hút đồng tính làm định nghĩa của đồng tính luyến ái (ví dụ, trong nghiên cứu của Billy và những người khác, 1993); nhiều nhà nghiên cứu tính dục (ví dụ, Bailey cùng một số người khác, 2000; Bogaert, 2003; Money, 1988; Zucker và Bradley,1995) giờ nhấn mạnh sự thu hút hơn là những hành động rõ ràng khi khái niệm hóa xu hướng tính dục" (trang 33). Và còn … độ phổ biến của đồng tính luyến ái ở nam giới (cụ thể là thu hút đồng tính) thay đổi theo thời gian và theo các xã hội (và vì vậy mà là một "mục tiêu di động") một phần là do hai tác nhân: (1) sự khác biệt giữa tỉ lệ sinh hay số người trong gia đình; và (2) ảnh hưởng của thứ tự sinh anh em trai. Hơn nữa, dù cho có được đo lường ở một quốc gia tại một thời điểm, tỉ lệ đồng tính luyến ái ở nam giới có thể thay đổi và không thể khái quát chung cho các thời kì hay các xã hội". (trang 33)
  5. 1 2 44. "Sự linh hoạt tính dục là sự linh hoạt phụ thuộc vào tình huống ở khả năng phản hồi về tình dục của một người, khiến cho một vài cá nhân có thể có ham muốn với nam hoặc nữ ở một số trường hợp, dù người đó có xu hướng tính dục chung thế nào… Chúng tôi dự đoán ở tất cả các nền văn hóa phần lớn các cá nhân có khuynh hướng về tình dục duy chỉ với người khác giới (là dị tính) và chỉ một thiểu số các cá nhân có khuynh hướng về tình dục (dù có duy chỉ hay không) với người đồng giới"."Xu hướng tính dục là một phần sâu kín của căn tính cá nhân và thường thì khá ổn định. Bắt đầu với những cảm xúc nhục dục thuở ban đầu, phần đông mọi người nhớ việc cảm thấy thu hút với người hoặc khác giới hoặc đồng giới. […] Sự thật rằng xu hướng tính dục thường khá ổn định không loại trừ khả năng ở một số người hành vi tình dục có thể thay đổi xuyên suốt quãng đời họ"."Nghiên cứu chỉ ra rằng xu hướng tính dục của nữ giới có nhiều khả năng thay đổi hơn nam giới một chút (Baumeister 2000; Kinnish cùng những người khác, 2005). Khái niệm cho rằng xu hướng tính dục có thể thay đổi theo thời gian được gọi là linh hoạt tính dục. Cho dù linh hoạt tính dục có xảy ra với một số phụ nữ, điều đó không có nghĩa rằng phần lớn phụ nữ sẽ thay đổi tính dục khi lớn tuổi hơn – thực ra, tính dục ở phần lớn mọi người thường ổn định theo thời gian".
  6. 1 2 3 50. "Cốt lõi của mỗi gia đình là một cặp đôi dị tính nuôi con họ tới tuổi trưởng thành – gọi là gia đình hạt nhân".
  7. 60. "Không quá ngạc nhiên, những cá nhân trên bục tự hào không chỉ bị chỉ trích bởi người dị tính mà còn bởi nhiều cá nhân LGBT khác, những người không thoải mái khi áp đặt số đông phải cùng chịu sự không thoải mái. Những cá nhân dị tính có thể thể hiện sự bối rối với khái niệm "lễ tự hào đồng tính", phản bác rằng họ không bàn về 'lễ tự hào dị tính'.
  8. 59. "Một chiến thuật khá mới được dùng để phản đối chống lại sự hiện diện của những người đồng tính nữ/song tính/đồng tính nam/chuyển giới chính là chiến lược 'lễ tự hào dị tính'".
Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.